Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014

BÀI TRÊN BÁO "ĐỜI SỐNG & PHÁP LUẬT "


Cười té ghế hay đau thắt lòng với chữ sửa Truyện Kiều?

(ĐSPL) – Mỗi từ, mỗi câu trong Truyện Kiều là mỗi viên ngọc long lanh trong kho tàng ngôn ngữ và văn chương Việt Nam, điều đó có lẽ không cần phải bàn. Nhưng nay có lẽ phải bàn lại vì có người… chê dở, và đã sửa tới 1/3 tác phẩm!
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua mỗi cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Mỗi người thứ có thứ không
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen…”
Đọc những câu thơ trên, ắt hẳn người ta sẽ nghĩ: “Sao mang máng như Truyện Kiều, mà sao hình như không phải Truyện Kiều?
   Cười té ghế hay đau thắt lòng với chữ sửa Truyện Kiều? - Ảnh 1
Ngôn từ Truyện Kiều đang bị người ta dùng bạo lực can thiệp!
1/3 kiệt tác bị sửa!
Vâng, nói sao cũng đúng. Là Truyện Kiều cũng đúng, bởi cái gốc là đại thi hào Nguyễn Du viết ra. Nhưng nói không phải Truyện Kiều cũng không sai, vì nó đã được/bị ông Đỗ Minh Xuân, một kỹ sư, sửa đi rồi.
Ngay những câu đầu tiên mở đầu kiệt tác, đã bị ông Đỗ Minh Xuân chọc bút vào. Một câu ông sửa một từ (Trải qua mỗi cuộc bể dâu); còn một câu ông thay đổi hoàn toàn. Chắc chắn những người đã thuộc câu thơ lấp lánh ánh ngọc “Lạ gì bỉ sắc tư phong” của đại thi hào, nay trở thành “Mỗi người thứ có thứ không”, có lẽ không thể nào không bị… sốc phản vệ!
Chuyện cứ tưởng như đùa nhưng lại là có thật 100% ở xứ ta! Xin đừng nóng vội, “dẽ cho thưa hết một lời đã nao” (Kiều - Nguyễn Du). Đó là trong cuộc hội thảo Dòng chảy văn hóa xứ Nghệ - Từ Truyện Kiều đến phong trào Thơ mới, tổ chức vào ngày 15/12/2012 tại khu di tích Nguyễn Du (Hà Tĩnh), mỗi đại biểu tham dự được phát một cuốn sách (bản photo) có nhan đề Truyện Kiều Nguyễn Du với tiếng Việt hiện đại, phổ thông, đại chúng và trong sáng, do Đỗ Minh Xuân khảo dịch - NXB Văn hóa - Thông tin in năm 2012. 
Ông Đỗ Minh Xuân, được biết là một kỹ sư. Không rõ kỹ sư gì, nhưng thông thường danh từ này dành cho giới kỹ thuật, khoa học tự nhiên. Thế nhưng ông đã “dày công nghiên cứu, nghiền ngẫm, đối chiếu, so sánh…”, và ông đã sửa hơn 1.000 chỗ trong Truyện Kiều như thế.  Cứ cho là mỗi đơn vị sửa sẽ rơi vào 1 câu, thì với  Truyện Kiều 3.524 câu, ông Xuân đã sửa đến 1/3 kiệt tác của đại thi hào!
Thật là ngạc nhiên, chưa nói là việc này có giúp làm cho tác phẩm hay hơn hay dở hơn, thì việc sửa tác phẩm của người khác là điều xưa nay chưa bao giờ có trong giới văn chương và kể cả các lĩnh vực học thuật khác. Trước hết, bởi quyền tác giả và trí tuệ của tác giả đã bị xâm phạm.
Lý do ông Xuân đưa ra là, vì người đọc Truyện Kiều ngày nay, không còn thịnh như trước đây do rào cản về điển tích, từ Hán, từ cổ, từ địa phương…, trong khi đó chữ nghĩa của Truyện Kiều lại rườm rà, trùng lặp, không hay, thiếu logic, trái văn cảnh…, nên ông sửa lại cho phù hợp!
Cười đến… dào mạch Tương!
Nói vòng vo không bằng chỉ ra trực diện. Ngoài câu mở đầu “Lạ gì bỉ sắc tư phong” lấp lánh ánh văn chương đã bị hãm hiếp bởi câu “Mỗi người thứ có thứ không” đầy cục súc, thì hàng loạt câu, từ, điển cố điển tích… đã bị ông kỹ sư này ra tay sát hại không thương tiếc. Chiếc cầu Lam, được gọi là “Lam kiều” một cách thướt tha sang trọng trong câu “Xăm xăm đè nẻo Lam kiều lần sang”, được ông thay bằng từ “đánh liều”, thì quả thật không có sự… liều mạng nào bằng!
“Thời trân” thì sửa thành “quả ngon”, “sẵn bày” thành “xách tay”, nên câu thơ miêu tả hành động của Thúy Kiều, một người con gái khuê các với mỗi động tác đều dịu dàng thanh nhã, cao sang “Thời trân thức thức sẵn bày”, thành ra một hành động dung tục “Quả ngon thức thức xách tay”! Nghe cứ như là nàng Kiều đang ăn trộm trái cây nhà mình cho vào giỏ rồi lén lút mang sang cho tình lang Kim Trọng!
   Cười té ghế hay đau thắt lòng với chữ sửa Truyện Kiều? - Ảnh 2
Trộm nghe thơm nức hương lân,"Buồng đào nơi tạm khóa Xuân hai Kiều"! (Đỗ Minh Xuân)
Nhưng chưa! Điều đáng sợ là ông Xuân… sợ điển cố điển tích, nên cứ gặp điển cố là ông cố tình gạt ra và thay vào đó là thứ từ ngữ dung tục của ông! Cái đài Đồng Tước mà Tào Tháo xây lên để tính vui thú với 2 nàng con gái sắc nước hương trời Đại Kiều và Tiểu Kiều - vợ của Tôn Sách và Chu Du - hiện lên trong câu thơ của đại thi hào một cách nên thơ, đẹp đẽ và sang trọng:
Trộm nghe thơm nức hương lân
Một nền Đồng Tước khóa Xuân hai Kiều”
đã bị ông Xuân hô biến thành “Buồng đào nơi tạm khóa Xuân hai Kiều”, nghe cứ như là cái buồng tạm giam tội phạm hình sự!
Không thể nào nói hết cái ngô nghê, ngớ ngẩn với hành động “sát phạt điển cố” đến kỳ dị của ông kỹ sư. Trong đêm gió mát trăng thanh, lửa tình nồng nàn, chàng thư sinh Kim Trọng cũng muốn thụ hưởng cái thơm tho của xác thịt người con gái đẹp như hương như hoa. Để giữ tiết trinh, nàng Kiều đã dẫn chuyện của cặp đôi Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy trong “Tây Sương ký”. Cặp đôi này vì quá yêu nhau mà đã ăn nằm với nhau trước khi thành hôn, để rồi sau đó chán nhau, bỏ nhau, khiến người đời sau cứ tiếc mãi cho đôi trai tài gái sắc mà không thành duyên giai ngẫu:
“Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi ai dễ đẹp tày Thôi – Trương
Mây mưa đánh đổ đá vàng
Quá chiều nên đã chán chường yến anh
Trong khi chắp cánh liền cành
Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên
Mái Tây để lạnh hương nguyền
Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng…”
Ấy thế nhưng ông Xuân sẵn sàng chém ngay cái điển cố:
“Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi từng thấy những ngày trái ngang”!
Nàng Kiều thông minh tuyệt đỉnh đã lấy truyện "Tây Sương ký" để thuyết phục Kim Trọng. Như vậy Kim Trọng mới thực sự bị thuyết phục và “Thấy lời đoan chính dễ nghe / Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân”. Còn nay, khi ông Xuân cắt quách đi cái điển cố văn học này, thì có nghĩa những lời Kiều nói chỉ là lý luận suông của nàng. Thử hỏi trong đêm gió mát trăng thanh, người yêu như hoa như ngọc, rượu đã ngấm, tình đã nồng, có ông thánh nào chịu chấp nhận những lời lý lẽ suông của người yêu như vậy không?
Lệch lạc, ngớ ngẩn, sai kiến thức, quy chụp… là những thứ nhan nhản trong “bản sửa” của ông kỹ sư. Vua Thuấn đi tuần thú sông Tương và chết, hai người vợ là  Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, và ngồi bên bờ sông khóc, rồi trầm mình tự vẫn. Từ đó “mạch Tương”, “giọt Tương” chỉ giọt nước mắt, là khóc. Thúy Kiều khóc cho thân phận mình: “Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương”. Ấy thế nhưng ông kỹ sư ngang nhiên sửa thành “trời đã sáng”: “Chưa xong điều nghĩ đã chào vừng dương”!
Than ôi, còn sự hàm hồ nào bằng!
Còn nhiều, nhiều lắm, vô kể. Thiếp Lan Đình thì gọi là “thiếp xem tình” (?), Lãm Thúy (có lý giải đây là danh từ riêng) đổi thành “kiểu dáng”; “đỉnh Giáp, non Thần” ngụ ý chuyện nam nữ mây mưa thì bị cưỡng hiếp đổi thành “tiên nữ giáng trần”, Chung (Tử) Kỳ - danh từ riêng, một người nghe đàn giỏi - được biến thành “ngưỡng vì”, lạ hoắc chẳng ăn nhập gì với nhau!...
Đọc những câu từ được ông kỹ sư sửa lại, người ta không khỏi ôm bụng mà cười! Thế nhưng, cười nhưng mà đau xót. Cười nhưng mà không thể không… dào mạch Tương, tức không thể không khóc! Không thể nào nghĩ ra được rằng, người ta có thể dám ngang nhiên mạo phạm văn chương, mạo phạm tiền nhân đến như vậy! Nhà thơ Nguyễn Quang Thân gọi hành động này là “vô đạo”, còn ông Thế Anh, trên tạp chí “Thơ” của Hội Nhà văn Việt Nam, gọi việc làm, hành động này là “vô lối”, “hỗn hào”; có người nói đây là hành động bất kính, người thì cho là hành động phản văn hóa, phản văn chương.
   Cười té ghế hay đau thắt lòng với chữ sửa Truyện Kiều? - Ảnh 3
Hiện nay Truyện Kiều có quá nhiều dị bản. Người ta cố giữ những bản Kiều cổ vì muốn tìm về đúng nguyên bản của nó.
Được cổ xúy bởi nhà nghiên cứu văn hóa lừng danh!
Cứ như vậy, đến hơn 1.000 chỗ sửa, 1/3 tác phẩm chứ không phải ít ỏi, tức gần như bất cứ chỗ nào trong Truyện Kiều, cũng bị ông kỹ sư cắt xé, bức tử!
Điều đáng nói là, việc sửa thơ này của ông kỹ sư lại nhận được cổ xúy của một bậc giáo sư lừng danh: Anh hùng lao động, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học, Giáo sư Đặng Vũ Khiêu!
Người ta đã kinh ngạc với hành động của ông kỹ sư, thì lại càng kinh hãi hơn khi biết rằng, hành động này được một bậc danh tiếng, “đức cao vọng trọng” trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa khuyến khích và tán dương! Quả thật giới văn chương và học thuật không khỏi ngỡ ngàng rồi kinh sợ, khi đọc những dòng đề tựa của vị giáo sư này:
Với một tinh thần khoa học rất nghiêm túc, ông tìm lại hầu hết các bản Truyện Kiều từ trước đến nay, so sánh các dị bản, ông tìm đọc hầu hết các bài đã bình luận, phân tích tác phẩm và tác giả Truyện Kiều. Từ đó, ông đã có ý tưởng lớn là làm thế nào để phổ cập hóa Truyện Kiều cho quảng đại công chúng, ông gạt bỏ những câu chữ khó hiểu từ tiếng Hán để thay bằng ngôn ngữ thuần Việt trong Truyện Kiều… Tôi hoan nghênh công phu nghiên cứu của ông Đỗ Minh Xuân và tin rằng cuốn sách này của ông là một đóng góp đáng kể vào việc nghiên cứu Truyện Kiều…”
Chính vì vậy chả trách tại sao, cứ mỗi chỗ sửa, ông Xuân tự khen là hay hơn cả chữ của Nguyễn Du, đến nỗi còn nói nếu cụ Nguyễn Tiên Điền mà sống dậy thì ắt phải thốt lên “hậu sinh khả úy”!
Quả thật đây là lối nói hàm hồ! Ngày nay, người ta dùng Truyện Kiều để bói, còn gọi “bói Kiều”. Điều này không phải do nàng Kiều linh thiêng linh ứng, mà bởi chính vì tác phẩm của đại thi hào quá súc tích, nó đã chứa đựng tất cả mọi mặt của cuộc sống, của đời người trong đó. Đồng thời, cũng có nghĩa bất cứ người dân nào cũng biết Truyện Kiều, chứ không phải như ông Xuân nói là ít người đọc.
Còn việc hiểu, thẩm thấu, phải nói Truyện Kiều là một hiện tượng đặc biệt: Ngôn ngữ Truyện Kiều là thứ ngôn ngữ văn chương bác học nhưng diễn đạt lại rất giản dị, khiến mọi người, tất cả những ai, khi đọc đều hiểu. Người học ít thì hiểu theo mức của người học ít, người học cao thì hiểu theo cách của người học cao, còn người không biết chữ cũng hiểu được, theo cách của người không biết chữ. Chẳng vì thế mà ông bà ta xưa, dù không biết đọc chữ Nôm, vẫn thuộc làu làu 3.524 câu một mạch không vấp. Thậm chí có người mê Truyện Kiều đến mức, thuộc và đọc ngược nguyên tác phẩm! Thậm chí, dân gian còn thạo Truyện Kiều đến mức còn tập Kiều, vịnh Kiều, đố Kiều... Biết bao nhiêu là hoạt động phong phú, thể hiện dân ta đâu có... dốt Kiều, như ông Xuân nói.
Sở dĩ, trong văn học Việt Nam, chúng ta có một khối lượng đồ sộ tác phẩm, bài viết, công trình nghiên cứu Truyện Kiều, cũng bởi độ uyên bác, thâm sâu của tác phẩm này, mà tất cả đều nằm trong văn chương, ngôn từ của tác phẩm. Vậy thì, khi ông Xuân làm một cái việc là "làm cho dễ hiểu", thì có còn gì là cái bản thể, cái tinh hoa của Truyện Kiều nữa!
Phải nói, ngôn ngữ trong Truyện Kiều cô đọng, súc tích, thâm sâu đến mức, cố học giả Đào Duy Anh đã phải viết một cuốn "Từ điển Truyện Kiều", giải nghĩa từng từ một theo nội dung tác phẩm. Như vậy, khi ông Xuân kỹ sư dùng bạo lực can thiệp vào Truyện Kiều thế này, thì có nghĩa công trình của ông Đào Duy Anh đành phải... vứt sọt rác?
Cách đây gần trăm năm, Phạm Quỳnh, cố học giả, nhà báo, nhà văn, đã viết: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn…”. Một thời quan điểm của học giả Phạm Quỳnh bị ta chỉ trích kịch liệt. Nhưng đến giờ, ngẫm lại câu nói của ông vẫn cứ nguyên giá trị.
Nhưng, nếu vậy thì hiện “tiếng ta” có lẽ bị lung lay bởi việc làm ngông cuồng của một ông kỹ sư! Bởi những viên ngọc long lanh trong Truyện Kiều đang bị chà đạp bằng một thứ ngôn ngữ cục súc, mà được giáo sư Vũ Khiêu cho là kết quả của một một việc làm “với một tinh thần rất khoa học và nghiêm túc”, để thực hiện một “ý tưởng lớn”! Nếu thứ sản phẩm của trí óc điên loạn này mà đem phổ biến ra, tức là thực sự Truyện Kiều đã mất! Mà, cứ tam đoạn luận theo kiểu Đề-các, thì “Truyện Kiều còn – tiếng ta còn”, nên Truyện Kiều mất thì tiếng ta… còn đâu! Rồi “tam đoạn luận” nữa: Tiếng ta mất thì nước ta… Hỡi ôi! Nghĩ đến đây thấy giật mình, không dám nghĩ tiếp nữa! Sợ quá!
ĐẶNG VỸ

Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2014

LẠI ĐƯỢC CÁC EM NHỚ TỚI...



LẠI ĐƯỢC CÁC EM NHỚ



Lại được các em nhớ tới mình
Mời về gặp mặt để...tôn vinh !
Thày xưa, trò cũ tình lưu luyến
Mấy chục năm rồi, vẫn...mới tinh !

Làng Hóp 24/4/2014 T.D

Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2014

VỀ MỘT HỌC TRÒ CŨ : TRẦN KHOA ( Bài của thạc sỹ Nguyễn Văn Hưng - Phó Hiệu trưởng trường THPT Mạc Đĩnh Chi Hải Dương trong buổi chia tay Trần Khoa nhận công tác tại đơn vị mới )

SÁNG MÃI MỘT NGỌN LỬA, ĐẸP MÃI MỘT TẤM LÒNG
Tác giả: Nguyễn Văn Hưng 




Trường THPT Mạc Đĩnh Chi được thành lập đến nay đã 35 năm, trải qua 4 thế hệ Hiệu trưởng, đồng chí Trần Khoa là thế hệ Hiệu trưởng thứ 4. Một năm đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng, đồng chí Trần Khoa đã thực sự đem lại một làn gió mới, một luồng sinh khí mát mẻ, dễ chịu, hài hòa làm nức lòng cả Hội đồng Sư phạm nhà trường; một cơ chế vận hành thông thoáng, linh hoạt đang đà phát triển. Nhưng vì nhiệm vụ chính trị, đồng chí Trần Khoa sẵn sàng đến nhận công tác ở một môi trường mới còn nhiều khó khăn và hoàn toàn mới mẻ. Đây là một trọng trách nặng nề mà Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Dương đặt lên vai đồng chí.
Năm 1998, đồng chí Trần Khoa chuyển về trường công tác cho đến nay đã được 16 năm. Trong khoảng thời gian đó, dù ở cương vị nào, đồng chí Trần Khoa có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển chung của nhà trường. Từ khi đồng chí được cấp trên bổ nhiệm Hiệu trưởng, Bí thư Đảng ủy, trên cương vị mới, bằng lòng nhiệt huyết, say mê của sức trẻ, đồng chí là người thuyền trưởng định hướng con đường nhà trường một lối đi riêng trên dòng hải lưu không hề lẫn nhòa mà rất đối thuận chiều mát mái. Trong những năm qua, đồng chí tổ chức các sự kiện của nhà trường rất thành công, ấn tượng, vui vẻ, đoàn kết, có tính giáo dục truyền thống, biểu đạt cho nét đẹp văn hóa sư phạm, tạo thành hiệu ứng rung chấn cảm xúc giao thoa giữa thầy cô với các em học sinh thân yêu. Đặc biệt đồng chí là người đặt viên gạch đầu tiên xây nền móng vững chắc ngôi nhà chung của Hội Cựu học sinh khu vực phía Bắc. Hội đã thể hiện những nghĩa cử cao đẹp như tri ân thầy cô nhân ngày 20/11; ngày Tết cổ truyền; tặng quà cho học sinh nghèo vượt khó khi mỗi độ Tết đến, xuân về. Với tư duy mẫn tiệp xuất phát từ trái tim nhạy cảm, đồng chí cùng các thành viên đã hình thành và thắp sáng lên một Hệ giá trị. Đó là Hệ giá trị Hội Cựu học sinh THPT Mạc Đĩnh Chi.
Tổng kết chặng đường công tác của đồng chí ở trường ta trong 16 năm qua, có thể khẳng định, đồng chí Trần khoa luôn lấy chữ Tâm làm la bàn định hướng cho mọi hành động, làm kim chỉ nam cho tư duy của mình. Đó là cái Tâm trong cách ứng xử với thời thế; cái tâm trong quan hệ đúng mực với đồng nghiệp; cái Tâm trong nghĩa trọng thầy trò; cái Tâm của đạo đức nhà giáo. Chính vì thế, đồng chí đã dành trọn được sự tin yêu, mến phục của cả tập thể Hội đồng Sư phạm nhà trường, sự kính trọng, ngưỡng mộ của các thế hệ học sinh. Đấy là phần thưởng cao quý nhất, là tấm huân chương tinh thần vô giá mà đồng chí xứng đáng được nhận.
Hẳn chúng ta còn nhớ năm 2013, trong quyết định cuối cùng, đồng chí Trần Khoa cũng cho thấy sự sáng suốt, bình dị của mình: Nếu chọn con đường chính trị thăng tiến thì phải đoạn tuyệt với bảng đen phấn trắng, và đồng chí đã dứt khoát lựa chọn con đường thứ hai, ở lại trường để được dạy dỗ các em học sinh – nguồn cảm hứng bất tận, điểm tựa tinh thần vững chắc trong cuộc đời dạy học; được gần gũi, sẻ chia, gánh vác cùng với đồng nghiệp biết bao bộn bề của trường lớp trên con đường hội nhập. Thấu hiểu nhân tình thế thái, thấu hiểu cái anh minh của lòng người, đó là điều mà đồng nghiệp, anh em, bạn bè, phụ huynh học sinh và các thế hệ học trò luôn quý mến, tin tưởng ở đồng chí. Đồng chí tự đáy lòng coi mình thuộc về học sinh, tất cả vì học sinh thân yêu thì chính các em học sinh tự nhiên coi đồng chí đã thuộc về họ. Có lẽ đó là điều quý giá nhất với đồng chí, quý giá hơn tất thẩy những lời ngợi ca, hơn tất thảy những gì cuộc đời đã vinh danh.
Hôm nay Hội đồng Sư phạm tổ chức chia tay đồng chí Trần Khoa – Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng nhà trường luân chuyển công tác. Đây là cuộc chia tay rất đỗi ngọt ngào, đong đầy cảm xúc đa diện: Có người đang mang một tâm trạng hụt hẫng, trống trải; có người cảm thấy luyến tiếc, khôn nguôi; có người vẫn còn ngỡ như là không phải sự thật; và có người không muốn đồng chí dời xa. Tất cả chúng ta đang chìm trong một không khí, một cảm xúc nao lòng người ở, thẫn thờ người đi. Nhưng cũng trong cuộc chia tay này, thực sự có một cái gì ấm áp lan tỏa trong tim mọi người, một cái gì thân thương, gần gũi nhau hơn, thấy những gì tốt đẹp nhất trong mình trỗi dậy mạnh mẽ. Đó là cái bắt tay động viên nhau đoàn kết nơi ghế đá sân trường của những người ở lại; đó là lời dặn dò chân tình, gan ruột với đồng nghiệp, với các em của người ra đi; đó là những giọt nước mắt đầy vơi trong đêm khuya khi giấc ngủ chưa tròn của một ai đó…Đấy không phải là những cảm xúc nhất thời, bộc phát mà là một sự dồn nén của tình cảm sâu thẳm từ trong tâm cảm, tâm thức của đồng nghiệp đã biến thành những làn sóng yêu thương tràn đầy sự trân quý. Phải chăng đồng chí Trần Khoa đã để lại một hình ảnh đẹp, một niềm tin cần thiết, như một chất kết dính, như một tấm gương để chúng ta gửi gắm một niềm hy vọng.
Cuộc đời vốn hết sức công bằng, không bao giờ một tấm gương đẹp, một con người có Tâm lại bị phủ nhận trước sự đánh giá của xã hội và đồng nghiệp. Thời gian đã lên tiếng và trả lời hộ anh. Trong những ngày chúng ta được biết anh luân chuyển công tác theo sự điều động của cấp trên, uy tín và tầm ảnh hưởng của anh càng được đẩy lên cao dù anh vẫn lặng lẽ, kín đáo. Đã từ rất lâu, vị trí của anh trong ngôi trường này mà tình cảm và lòng quý trọng của chúng tôi dành cho anh là bất biến, là không gì có thể lay chuyển nổi. Đó là tài sản tinh thần vô giá mà cả Hội đồng Sư phạm nhà trường xin tặng anh trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến và ý nghĩa này. Chúng tôi – những người ở lại, chúc anh đến nơi công tác mới luôn mạnh khỏe, bình an và đem tâm huyết, trí tuệ của mình xây dựng trường THPT Nam Sách 2 ngày càng phát triển. Chúng tôi mong anh luôn nhớ về mái trường THPT Mạc Đĩnh Chi thân yêu – nơi ấy có những đồng nghiệp và các em học sinh của anh vẫn đang dõi theo từng bước chân anh đi. Tất cả chúng tôi – những người ở lại, mãi coi anh là người thân, người anh, người em, người học trò ưu tú trưởng thành từ ngôi trường này và luôn mở rộng cánh cửa đón anh trở về thăm lại trường xưa bằng tất cả tấm chân tình thương nhớ. Chúng ta, những người ở lại, trong giờ phút này hãy nắm chặt tay nhau, đoàn kết hơn nữa để duy trì những gì là cốt cách tâm hồn của trường ta, những gì là truyền thống tốt đẹp của trường ta mãi mãi bền vững xứng danh tên tuổi Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi và quyết tâm đồng chí, đồng lòng đưa nhà trường vững bước đi lên.
Những tình cảm sâu sắc mà cả Hội đồng Sư phạm nhà trường dành cho đồng chí Trần Khoa trong buổi chia tay ngày hôm nay là một dấu ấn đẹp đẽ vô cùng. Dấu ấn đó chỉ có thể thăng hoa vào những phút dây cuối khi chúng ta được kiểm chứng bằng cả tấm lòng đan kết tấm lòng, bằng tình cảm nói hộ tình cảm. Những giọt nước mắt ấm nồng của người ra đi hòa trong nước mắt nghẹn ngào của người ở lại. Tất cả những trái tim đều tan chảy theo theo dòng cảm xúc: hụt hẫng, trống trải, bịn rịn, luyến tiếc, khôn nguôi. Những gì tốt đẹp nhất mà chúng ta và đồng chí Trần Khoa dành cho nhau sẽ là một kỉ niệm đẹp, là một tài sản tinh thần vô giá mà mỗi chúng ta cần phải lưu giữ một cách trân trọng.

NGHỊ ĐỊNH MỚI VỀ CHẾ ĐỘ NHUẬN BÚT


19:12 | 14/03/2014

Chính phủ ban hành Nghị định mới về chế độ nhuận bút

(Xây dựng) - Chính phủ vừa ban hành Nghị định quy định về chế độ nhuận bút trong lĩnh vực báo chí, xuất bản, có hiệu lực thi hành từ 1/6/2014.

Ảnh minh họa.
Nghị định này áp dụng đối với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, nhà báo, phóng viên, biên tập viên, cơ quan báo chí, nhà xuất bản và các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan đến tác phẩm báo chí, xuất bản phẩm.
Nghị định nêu rõ, mức nhuận bút, thù lao trả cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả và những người tham gia thực hiện các công việc liên quan đến tác phẩm báo chí, xuất bản phẩm căn cứ vào thể loại, chất lượng tác phẩm, mức độ ảnh hưởng của tác phẩm đến kinh tế - xã hội, mức độ đóng góp vào tác phẩm, các quy định khuyến khích sáng tạo tác phẩm tại Nghị định này và quy định của cơ quan báo chí sử dụng tác phẩm hoặc theo hợp đồng sử dụng xuất bản phẩm với nhà xuất bản. Mức nhuận bút của tác giả không thấp hơn mức thù lao của người tham gia công việc có liên quan đến tác phẩm cùng thể loại.
Tác giả của tác phẩm dành cho thiếu nhi, dân tộc thiểu số, phóng sự điều tra; tác giả là người Việt Nam viết trực tiếp bằng tiếng nước ngoài, người Kinh viết trực tiếp bằng tiếng dân tộc thiểu số, người dân tộc thiểu số viết trực tiếp bằng tiếng của dân tộc thiểu số khác; tác giả của tác phẩm được thực hiện trong điều kiện khó khăn, nguy hiểm và những trường hợp đặc biệt khác được hưởng nhuận bút cao hơn nhằm khuyến khích sáng tạo.
Tác phẩm thuộc loại hình sáng tác, nghiên cứu được trả nhuận bút cao hơn tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, sưu tầm, biên soạn, chú giải, tuyển tập và hợp tuyển. Tác giả được hưởng nhuận bút theo quy định của cơ quan sử dụng tác phẩm khi tác phẩm đó được sử dụng làm tuyển tập, hợp tuyển, phóng tác, cải biên, chuyển thể, sưu tầm và biên soạn thành tác phẩm mới hoặc dịch sang ngôn ngữ khác. Đối với tác phẩm gốc được dịch sang ngôn ngữ khác để thể hiện trên loại hình báo chí khác hoặc ấn phẩm báo chí khác của cùng một cơ quan báo chí, việc chi trả nhuận bút thực hiện theo quy định của từng cơ quan báo chí.
Tác phẩm lưu hành nội bộ, không kinh doanh hưởng chế độ nhuận bút thấp hơn tác phẩm thuộc thể loại tương ứng có kinh doanh. Mức nhuận bút do tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả và bên sử dụng tác phẩm thoả thuận.
Cũng theo Nghị định, đối với tác phẩm đồng tác giả, tỷ lệ phân chia nhuận bút do các tác giả thoả thuận. Tác phẩm báo chí đăng tải lại có trích dẫn nguồn của cơ quan báo chí khác đã có thoả thuận chia sẻ thông tin theo quy định về bản quyền, nhuận bút do các cơ quan báo chí thoả thuận quyết định.
Trích lập quỹ nhuận bút
Cơ quan báo chí trích lập quỹ nhuận bút trong phạm vi nguồn đã được quy định. Quỹ nhuận bút dùng để trả nhuận bút cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được sử dụng; trả thù lao, lợi ích vật chất; tổ chức các hoạt động khuyến khích sáng tạo, không sử dụng vào mục đích khác.
Nghị định nêu rõ, chậm nhất 60 ngày, kể từ ngày tác phẩm được đăng tải, công bố, bên sử dụng tác phẩm phải trả hết tiền nhuận bút cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định.
Tác giả làm việc theo chế độ hợp đồng với cơ quan báo chí sử dụng tác phẩm, sáng tạo tác phẩm ngoài định mức được giao của cơ quan báo chí, được hưởng 100% nhuận bút.
Người thuộc cơ quan báo chí sử dụng tác phẩm thực hiện các công việc liên quan đến tác phẩm báo chí ngoài định mức được giao, hưởng 100% thù lao.
Hệ số tối đa nhuận bút tác phẩm báo in, báo điện tử từ 10-50
Nghị định nêu rõ, đối tượng được hưởng nhuận bút, thù lao đối với tác phẩm báo in, báo điện tử gồm: 1- Tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được cơ quan báo chí sử dụng; 2- Lãnh đạo cơ quan báo chí, biên tập viên và những người tham gia thực hiện các công việc có liên quan đến tác phẩm báo chí; 3- Người sưu tầm tài liệu, cung cấp thông tin phục vụ cho việc sáng tạo tác phẩm báo chí.
Khung nhuận bút cho tác phẩm báo in, báo điện tử được quy định hệ số tối đa là 10 đối với tin, trả lời bạn đọc, tranh, ảnh. Đối với thể loại chính luận, phóng sự, ký (một kỳ), bài phỏng vấn, sáng tác văn học, nghiên cứu thì hệ số tối đa là 30. Riêng thể loại trực tuyến, Media thì hệ số tối đa là 50.
Đối với tác phẩm báo nói, báo hình thì hệ số tối đa cho thể loại tin, trả lời bạn đọc là 10; đối với thể loại chính luận, phóng sự, ký (một kỳ), bài phỏng vấn, sáng tác văn học, nghiên cứu, hướng dẫn khoa học giáo dục là 30 và tọa đàm, giao lưu là 50.
Trong đó, giá trị một đơn vị hệ số nhuận bút bằng 10% mức tiền lương cơ sở.

Quốc Bình
Bản in

Các bài đã đăng:

Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014

THƠ CỦA BẠN THƠ



CHIỀU CÔN SƠN 
(tặng bạn đồng nghiệp Nguyễn Duy Dự
 & các bạn thơ Hải Dương)


THÀY GIÁO TOÁN - NHÀ THƠ ĐẬU KẾ ĐỨC (ảnh của Thanh Dạ)


Côn Sơn chiều muộn cuối thu
Vừa tan cơn bão, mây mù giăng giăng
Tàn thu nắng cất vội vàng
Còn heo may gió giữa ngàn thông reo
“Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu”
Nghe hồn thổn thức chín chiều mông lung
Người ơi, chi lắm kiêu hùng
Để trời xanh đã nổi khùng đánh ghen
Lệ chi viên ! Lệ chi viên !
Mấy trăm năm vẫn còn nguyên lệ buồn
Lời sàm tấu máu đào tuôn
Nhân tình thế thái lưỡi gươm mù lòa...

Chúng con thất thập, nhập nhòa
Lang thang thơ phú cỏ hoa vịnh đời
Thắp hương thầm gọi tên Người
Nguyện cầu nhật nguyệt rạng ngời Ưc Trai !...

Côn Sơn Hải Dương 12- 2012
ĐẬU KẾ ĐỨC

THƠ TẾU TRÊN TRANG BẠN

CHỒNG THẤP VỢ CAO



Sao em cao thế em ơi 
Để anh phải ngước lên trời ngó em 
Ước gì anh được cao thêm 
Mỗi lần anh muốn hôn em khỏi trèo 
Nhà anh lại rất là nghèo 
Hay là anh lấy cà kheo đi cùng ? !

LAN HOÀNG HẠNH (FACEBOOK)

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014

THƠ CỦA BẠN ĐỒNG NGHIỆP CŨ


           



             Anh Đậu Kế Đức, bạn đồng nghiệp sư phạm với tôi từ những năm 60 của thiên niên kỷ trước . Anh dạy Toán; Tôi dạy văn ở trường Cấp 3 Thanh Hà HD . Xa nhau gần nửa thế kỷ, không tin tức . Vậy mà qua thơ, chúng tôi tìm được nhau . Qua một người bạn khác, biết cả tôi và anh Đức, một lần từ Nam ra khoe rằng, sau khi vợ mất, anh Đức làm rất nhiều thơ, và thơ rất hay . Anh viết chủ yếu về bạn học cũ, đồng nghiệp và học trò một thời quá vãng với một nỗi hoài niệm nao lòng ! Thế là cách đây 5 năm, đều đặn năm nao anh cũng từ Sài Gòn ra bắc vài lần, và lần nào cũng nhảy xe buýt về Hải Dương thăm tôi, với 1 tập thơ mới viết trong năm. Anh chỉ ở chơi 1 ngày, 1 đêm. Bởi lịch học trò cũ mời đã xếp kín trong nửa tháng hành hương của anh. Chính tấm lòng hs cũ đã khiến anh cảm thấy hạnh phúc với cái nghề bán cháo phổi này, và tôi cũng vậy ! Anh viết lời đề từ tập thơ BẾN BỜ NEO ĐẬU như sau:
                            Bến bờ neo đậu – của để dành
                            Trải nghiệm già; Ký ức đương xanh
                            giọt đời từng giọt, gom từng giọt
                            Đắng đót – ngộ ra cũng ngọt lành !
    Xin trích ra 1 trong hơn 100 bài thơ trong tập BẾN BỜ NEO ĐẬU của anh để các bạn cùng chia sẻ : BẠN THỜI CẮP SÁCH


                            BẠN THỜI CẮP SÁCH
                                          (thân tặng các bạn đồng môn trường tư thục Ba Đình 1956 – 59)

                            Gĩa trường biền biệt ra đi
                            Chân trời góc biển dễ gì gặp nhau
                            Năm mươi năm lắm bể dâu
                            Chiều nay hò hẹn bạn bầu Hồ Tây
                            Uống đi, để tỉnh, để say
                            Ôm nhau xóa nợ yêu chay, mộng thầm
                            Bạn bầu từ thuở xa xăm
                            Bạn thời cắp sách – ngải trầm khó phai
                            Lang bang rạc trắng đời người
                            Vẫn trong râm mát xanh tươi bạn bầu
                            Một thời hàm phẩm thấp cao
                            giờ chung một chiếu, mày tao thỏa tình !
                           
                            Nhà Tròn Trúc Bạch 2009 ĐKĐ

Thứ Ba, 15 tháng 4, 2014

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014

TIỄN ĐƯA NHẠC MẪU



TIỄN ĐƯA NHẠC MẪU







Người về chốn ấy xa xăm
Buồn, vui gởi ánh trăng rằm ngàn thu
Gởi chúng con những lời ru
Chúng con nguyện nhớ lời U*suốt đời
U ơi, U ơi, U ơi !
Mong U về cõi mây trời bình an ! ! !

Cẩm Chế  12/4/2014
TẾ TỬ NGUYỄN DUY DỰ
( THANH DẠ)

Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2014

LỜI CẢM TẠ...


LỜI CẢM TẠ






     Đúng 4h45’ ngày 10/4/2014 (tức 11 tháng 3 năm Giáp ngọ), Nhạc mẫu của tôi, Cụ Tăng Thị Thìn, đã trút hơi thở cuối cùng tại nhà người con trai út, sau đó thi hài cụ được đưa về tư gia của cụ tại thôn Du La, xã Cẩm Chế, Huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương để tổ chức phúng viếng và an táng .

   Nhạc mẫu tôi sinh năm 1924, quê gốc ở thôn Lan Can, xã Thanh Lang, huyện Thanh Hà Hải Dương . Cụ sinh trưởng trong gia đình thuần nông, có 3 chị em gái, mà cụ là chị cả. Xây dựng gia đình tại Cẩm Chế, cụ sinh hạ được 8 người con, 3 trai, 5 gái . Vợ tôi là con thứ 2 và là trưởng nữ . Các con cụ có 3 người đã từng phục vụ trong quân đội, 2 trong ngành giáo dục, 2 trong ngành thương nghiệp và 1 làm nông nghiệp . Cụ đã có 21 cháu nội ngoại và 20 chắt .

   90 năm trên trần thế, cụ trọn vẹn là một nông dân thuần túy, yêu chồng , thương con cháu và sống từ bi trong lòng đạo Phật.

   Sau khi qua đời bởi tuổi cao, sức yếu và không cưỡng lại được mệnh trời, nhạc mẫu tôi đã được con cháu, họ hàng nội ngoại, liên gia, xóm giềng, các cơ quan đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng...của địa phương thôn Du La, xã Cẩm Chế, các gia đình thông gia của cụ, thông gia của các con cụ, các cơ quan của các con (trai, gái, dâu, rể),các cháu(trai,gái,dâu,rể) của cụ đã và đang làm việc...đã đến thăm viếng và tiễn đưa cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa địa quê nhà Cẩm Chế .

    Riêng tôi, vô cùng cảm động, bởi vẫn được các đồng nghiệp cũ, cơ quan cũ như Hội Đồng Sư Phạm trường THPT Mạc Đĩnh Chi Hải Dương, và các trường THPT trong Huyện Nam Sách, các bạn cũ, trò cũ của 2 huyện Thanh Hà, Nam Sách, các thi huynh, thi hữu ở các CLB thơ mà tôi tham gia...đã đến chia buồn với tôi và phúng viếng nhạc mẫu của tôi. Đặc biệt, hội xóm Phố Hóp quê tôi, các bạn trên mạng : weblog TRIANCUOCDOI, FACEBOOK đã đến chia buồn rất đông...

    Với tư cách cá nhân, tôi xin nhờ nhà mạng gửi tới tất cả các cơ quan, đoàn thể,các đơn vị, các cá nhân bạn hữu... của gia đình, của cá nhân anh em, con cháu chúng tôi LỜI CẢM TẠ CHÂN THÀNH !

    Trong tang gia bối rối, chắc chắn gia đình và cá nhân tôi cũng có nhiều khiếm khuyết, xin các quý cơ quan, đoàn thể, các bạn lượng thứ !

     

    Làng Hóp 9h15’ 13/4/2014 (14 tháng 3 Giap Ngọ)

    Người viết : NGUYỄN DUY DỰ (THANH DẠ)







Thứ Tư, 9 tháng 4, 2014

BỐN LĂM NĂM ĐÃ ĐI QUA


45 NĂM ĐÃ ĐI QUA...
(lời gửi vợ sau 45 năm chung sống - từ 6/4/1969)






45 NĂM ĐÃ ĐI QUA
VỢ TÔI TỪ BẤY... VẪN LÀ...HOA KHÔI !
TÔI LO ÔM ĐẤT, ÔM TRỜI

VỢ TÔI LO CHUYỆN ÔM TÔI...MÀ SẦU

BỐN LĂM NĂM, TẠ MỘT CÂU :
- CÁM ƠN EM VẪN GIỮ MẦU THỦY CHUNG !


Làng Hóp 5/4/2014 T.D

NGẪU HỨNG TRONG NGÀY

thanh dạ















NGẪU HỨNG TRONG NGÀY


Thanh minh
trời vẫn tối mò
Vẫn mưa xình xịch
như trò mưa mau
Hội Đền
mưa tưới ướt nhàu
Nghĩ mà
thêm tức
thêm đau
thêm buồn

Làng Hóp
09/4/2014
THANH DẠ NGUYỄN