Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012

KHO...RỒNG !

Kho rồng

TT - Thật là lạ trong thập nhị địa chi tương ứng với 12 con vật biểu tượng thì có mỗi rồng là không có ngoài đời thực. Thế nhưng rồng lại xuất hiện nhiều nhất trong lịch sử mỹ thuật Việt suốt từ thế kỷ thứ 10 đến cuối thế kỷ 19.


Hình rồng thời Lý trong bố cục lá đề, chất liệu đất nung - Ảnh: Lê Thiết Cương
Giai đoạn 1.000 năm Bắc thuộc và trước nữa là thời Đông Sơn thì không có hoặc đến nay vẫn chưa tìm thấy một hiện vật nào có hình rồng. Na ná rồng như giun, cá sấu… thì có. Nhưng gần mười thế kỷ sau đó, cùng với sự lên ngôi của Lý Công Uẩn, hình tượng rồng lại trở nên quen thuộc. Có phải là các thế hệ nghệ sĩ cha ông ta thích đề tài rồng, thích vẽ, nặn, khắc con vật này hơn 11 con khác trong 12 con giáp và những con khác hay không? Hay vì rồng là một con vật đặc biệt?
Trọng trách của rồng


Hình rồng mây lửa khắc gỗ, điêu khắc đình thế kỷ 17


Rồng chầu mặt nguyệt, sơn son thếp vàng thế kỷ 19
Có một kho rồng
1.000 năm trải qua các thời kỳ (từ Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng, Lê Mạt, Nguyễn) hình tượng rồng đã có nhiều thay đổi từ tạo hình, bố cục, chất liệu. Dễ nhận thấy những nét chính như sau: rồng Lý mượt mà, tinh tế, uốn lượn mềm mại. Rồng Trần nhìn bề mặt giống Lý nhưng tinh thần thì khác, thô và khỏe hơn. Rồng Lê Sơ chú trọng chi tiết, cụ thể, ít chất trang trí cách điệu. Rồng Mạc bỏ hẳn lối uốn khúc hình sin của Lý Trần, tuy ít uốn lượn nhưng vẫn mềm mại gây cảm giác mộc mạc, giản dị. Rồng Lê Trung Hưng và Lê Mạt có hai đột phá là phần thân ở đoạn giữa có thêm một nhịp võng xuống tạo thành hình yên ngựa và thứ hai là hình mây lửa ở đuôi, bờm hoặc kết hợp rồng và những đám mây lửa hòa cùng nhau. Rồng Nguyễn là vẻ đẹp của cầu kỳ, kỹ lưỡng, trau chuốt.
Cách thức thể hiện rồng qua các thời kỳ từ đục đẽo, chạm khắc cho đến đúc, gò, đắp nổi và chủ yếu ở dạng phù điêu. Rồng có mặt trên tất cả các chất liệu: đá, đất nung, gỗ, gốm, đồng, sơn mài. Rồng có ở nhiều dạng bố cục: chữ nhật, tròn, lá đề, bán nguyệt.
Phương pháp tạo hình rồng kết hợp với những đề tài khác làm hình tượng rồng càng trở nên phong phú.


Tranh bột màu trên giấy của Nguyễn Tư Nghiêm
Ví dụ: cá hóa rồng (tháp Đăng Minh đời Trần, đình Lỗ Hạnh đời Mạc).
Rồng hóa mây (lan can đá ở cổng vào Văn Miếu).
Tiên nữ cưỡi rồng (đình Lỗ Hạnh thời Mạc và ở chùa Keo thời Lê Trung Hưng).
Rồng ôm chữ phúc (chùa Bối Khê, thời Lê Trung Hưng).
Rồng ngậm chữ thọ (đền Phú Đa, thời Lê Mạt).
Rồng chầu chữ Phật (chùa Kim Liên, Tây Hồ thời Lê Sơ).


Họa tiết rồng yên ngựa, phần dưới của chân đèn gốm thế kỷ 17
Trong giai đoạn hiện đại, rồng rất hiếm khi xuất hiện vì chức năng thể hiện thần quyền và pháp quyền của nó không còn nữa, chỉ là một đề tài như muôn đề tài khác. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến sự vắng bóng rồng trong hội họa và điêu khắc hiện đại.
Trong nghệ thuật trang trí và kiến trúc hiện đại cũng vậy, rất ít đất cho rồng. Đình chùa miếu mạo nếu có tu sửa cũng chỉ là bôi, đắp, tô, trát lại. Nếu xây mới thì cũng chép lại theo mẫu rồng cũ, không sáng tạo thêm được gì. Giả sử nếu muốn sáng tạo thì rất khó có thể vượt được cha ông - những người đã khai thác rất kỹ hình tượng rồng từ chất liệu, đề tài, bố cục, cách tạo hình để góp vào mỹ thuật truyền thống VN cả một... kho rồng phong phú.
Trong nghệ thuật có hai phần nội dung và hình thức. Đề tài thuộc nội dung là phạm trù ít thay đổi hơn so với hình thức. Những đề tài nào mất đi tức là nhu cầu cuộc sống không còn cần đến nữa, đó là quy luật. Rồng là đề tài như vậy. Nhưng xem rồng, nghiên cứu học hỏi, thưởng thức rồng thì không thể có gì thay được vì đó đã là những tác phẩm tiêu biểu trong kho tàng di sản nghệ thuật của dân tộc.
LÊ THIẾT CƯƠNG